Trong tình hình kinh tế mở như hiện nay, những hiệp định thương mại tự do được ký kết tạo điều kiện hợp tác của doanh nghiệp Việt. Tuy có những thuận lợi nhưng cũng không ít những thách thức. Một trong những khó khăn là công nghệ đòi hỏi doanh nghiệp phải chuyển đổi số toàn diện từ vận hành kỹ thuật, quản lý và pháp lý. Giao kết hợp đồng điện tử là bước phát triển trong quá trình chuyển đổi số của các doanh nghiệp. Vậy có những vấn đề xung quanh đến giao kết hợp đồng điện tử mà công ty cần phải biết? Luật Minh Châu sẽ cung cấp đầy đủ các thông tin dưới đây. 

Giao kết hợp đồng điện tử là gì? 

Dựa vào Điều 33 Luật giao dịch điện tử 2005 quy định rõ giao kết hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để thực hiện một phần hoặc toàn bộ giao dịch trong khi giao kết hợp đồng.

Trong đó thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo và gửi đi, được nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử. 

Theo Điều 34 của bộ luật này quy định việc thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử. 

Và trong quá trình giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, đề nghị và chấp nhận GKHĐ được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu. 

Cách thức để giao kết HDDT: 

Dựa vào Khoản 2 Điều 36 Luật Giao dịch điện tử 2005 chỉ rõ việc giao kết hợp đồng điện tử được thông qua bằng việc ứng dụng thông điệp điện tử để đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng. Để đảm bảo cho việc thực hiện, luật cũng quy định thông điệp điện tử được xem như văn bản nếu đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật. Như vậy việc trao đổi điện tử sẽ được xem có giá trị như văn bản giấy truyền thống. 

Điều 16 của luật này cũng chỉ rõ quá trình giao kết hợp đồng điện tử được hiểu là người gửi khởi tạo thông điệp dữ liệu đúng pháp luật và gửi cho người nhận qua phương tiện điện tử đã thống nhất trước đó. Khi nhận được thông điệp dữ liệu đó, người nhận sẽ xác nhận bằng chữ ký điện tử. Trong quá trình giao kết, các bên cần đảm bảo theo pháp luật quy định. 

Lưu ý quan trọng: Việc trao đổi này được xem là hiệu lực khi địa chỉ dùng để trao đổi là địa chỉ mà hai bên thống nhất với nhau. Nếu địa chỉ này được dùng của bên khác với địa chỉ thống nhất lúc đầu nhưng không báo cho bên còn lại thì không được công nhận. 

Chữ ký điện tử: 

Dựa vào Bộ luật dân sự 2015 (“BLDS 2015”) thì hợp đồng điện tử được áp dụng theo luật này. Dựa vào Khoản 4 Điều 400 chỉ ra rằng thời điểm ký kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau ký vào văn bản hay hình thức khác thể hiện sự xác nhận trên văn bản. Do đó không quy định bắt buộc là chữ ký sống hay chữ ký điện tử. Do đó chữ ký điện từ có giá trị pháp lý theo Luật Dân sự 2015 và Luật Giao dịch điện tử 2005. 

Hiện nay chữ ký điện tử có 3 loại gồm chữ ký số, chữ ký scan và chữ ký hình ảnh. Hiện nay chỉ có chữ ký số được quy định rõ tại Khoản 1 Điều 24 Nghị định 130/2018/NĐ-CP xác nhận  là một dạng chữ ký điện tử. 2 loại hiện tại không quy định cụ thể nên không mặc nhiên là chữ ký điện tử. Tuy vậy hợp đồng nếu giao kết bằng 2 loại chữ ký này không bị xem là vô hiệu vì chưa có quy định loại trừ 2 loại này.

 

Việc công chứng hợp đồng điện tử: 

Do pháp luật chỉ ra rõ ràng hợp đồng điện tử vẫn được xem là một loại hợp đồng nên việc công chứng vẫn có hiệu lực. Hiện nay Điều 63 Điều 63 Nghị định 52/2013/NĐ-CP có đề cập đến hoạt động động chứng thực HDDT, Tuy nhiên đang ở mức chung chung, không cụ thể và ngay cả Luật Công chứng 2014 cũng đưa đề cập đến việc chứng thực cho loại hợp đồng này.

Do đó trong trường hợp các bên tham gia hợp đồng điện tử trao đổi, đàm phán nội dung và ký kết từ xa qua phương thức điện tử muốn công chứng thì cần phải hỏi kỹ càng hoặc cần sự tư vấn cụ thể chính xác từ luật sư để đảm bảo chặt chẽ không gây tranh chấp sau này. 

Mọi vấn đề cần tư vấn, quý doanh nghiệp có thể liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ chính xác, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí.

[contact-form-7 404 "Not Found"]

Trả lời

error: